Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Phạm Hùng
Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Phạm Hùng (ảnh: Internet)
I.
Khái lược tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Phạm Hùng
Đồng chí Phạm Hùng tên khai sinh là Phạm Văn
Thiện, sinh ngày 11 tháng 6 năm 1912, trong một gia đình nông dân có truyền
thống yêu nước cách mạng tại ấp Long Thiềng, làng Long Hồ, tổng Long Bình,
huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc ấp Long Thuận A, xã Long Phước,
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng từ rất
sớm, khi còn là học sinh. Năm 1930, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Đông Dương, làm Bí thư chi bộ trường học và hoạt động qua các cấp chi ủy xã,
huyện ủy, tỉnh ủy Mỹ Tho. Tháng 6/1931, Đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 3
năm tù, 3 năm quản thúc. Trong lao tù, Đồng chí tiếp tục tổ chức cho tù nhân
đấu tranh chống chế độ thực dân, phong kiến. Ngày 20/9/1932, thực dân Pháp mở
phiên tòa đại hình tại tỉnh Mỹ Tho, kết án tử hình Đồng chí và đưa về giam ở xà
lim án chém Khám Lớn Sài Gòn. Trước cuộc đấu tranh mãnh liệt của Nhân dân ta và
nhân dân Pháp, Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, thực dân Pháp buộc phải
giảm án tử hình cho một số chiến sĩ cộng sản ở Việt Nam, đồng chí Phạm Hùng
được giảm xuống án khổ sai chung thân và đày đi Côn Đảo từ ngày 17/1/1934.
Trong năm 1934, Đồng chí được bổ sung vào chi uỷ
nhà tù Côn Đảo sau đó được cử làm Bí thư Đảo uỷ. Cách mạng tháng Tám nổ ra,
Đồng chí đã lãnh đạo anh em tù nhân chớp thời cơ giải phóng nhà tù Côn Đảo lần
thứ nhất (1945).
Tháng 9/1945, đồng chí Phạm Hùng từ Côn Đảo trở
về đất liền, hoạt động cách mạng ở Sóc Trăng; tháng 10/1945, được bầu vào Xứ uỷ
Nam bộ, phụ trách Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc; năm 1947, được cử làm Phó Giám
đốc Sở Công an Nam bộ. Năm 1948, Đồng chí được cử làm Trưởng đoàn đại biểu Đảng
bộ Nam bộ ra Việt Bắc.
Tháng 6/1950, đồng chí Phạm Hùng trở lại miền
Nam và được Xứ uỷ cử phụ trách Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn; tháng 2/1951, được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng; tháng 3/1952, được cử làm Phó Bí thư
Trung ương Cục, Bí thư Phân liên khu uỷ miền Đông kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng
chiến hành chính Phân liên khu miền Đông Nam bộ.
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam được
ký kết, Đồng chí được cử làm Trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban
Liên hiệp đình chiến Nam bộ; năm 1955, được cử làm Trưởng phái đoàn đại diện Bộ
Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban kiểm soát quốc tế tại
Sài Gòn.
Tháng 6/1956, Đồng chí được cử làm Bộ trưởng Phủ
Thủ tướng; tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II, được
bầu làm Uỷ viên Bộ Chính trị; năm 1957, được cử làm Trưởng ban Thống nhất của
Trung ương.
Tháng 4/1958, tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khoá
I, Đồng chí được bầu làm Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách về kinh tế; tháng
7/1960, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá II, tiếp tục được bầu làm Phó Thủ
tướng Chính phủ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng (9/1960), Đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
và Ban Bí thư; tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá III (6/1964), tiếp tục được
bầu làm Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách kinh tế, tài chính, ngân hàng, nội
thương, ngoại thương.
Từ năm 1967 đến năm 1975, Đồng chí được cử làm
Bí thư Trung ương Cục miền Nam và Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam, trực tiếp vào chiến trường chỉ đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đồng chí được giao trọng trách
thay mặt Đảng, Chính phủ lãnh đạo, điều hành các công việc của Đảng và Nhà nước
ở miền Nam.
Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội của nước Việt Nam
thống nhất, khoá VI (6/ 1976), Đồng chí được bầu làm Phó Thủ tướng Chính phủ;
tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tiếp tục
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị; năm 1980, được giao trọng
trách Phó Thủ tướng phụ trách nội chính, kiêm Bộ trưởng Nội vụ (nay là Bộ Công
an); tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VII (7/1981), tiếp tục được bầu làm Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (12/1986), Đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ
Chính trị; tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VIII (6/1987), được bầu làm Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng của Quốc hội, Uỷ viên
Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa II, III,
VI, VII và khóa VIII.
Ngày 10/3/1988, đồng chí đột ngột từ trần trên
đường đi công tác ở các tỉnh Nam bộ, để lại niềm tiếc thương, xúc động cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân.
Với 58 tuổi Đảng, 60 năm hoạt động cách mạng
phong phú và hào hùng, đồng chí Phạm Hùng đã nêu một tấm gương mẫu mực về sự
kiên trung, bất khuất, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
vì hạnh phúc của Nhân dân. Đảng và Nhà nước ta đã tặng đồng chí Huân chương Sao
vàng, Huy hiệu 50 tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.
II.
Những cống hiến quan trọng của đồng chí Phạm Hùng đối với sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc
1.
Đồng chí Phạm Hùng - Một cán bộ tiền bối tiêu biểu của Đảng, người chiến sĩ
cộng sản kiên trung, bất khuất
Đồng chí Phạm Hùng sinh ra ở một vùng đất Nam bộ
giàu truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Đồng chí tham gia hoạt động
cách mạng trong tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng tại Mỹ Tho khi 16 tuổi;
vinh dự được kết nạp vào Đảng, làm Bí thư chi bộ trường học khi 18 tuổi; được
Đảng phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho khi 19 tuổi. Khi đang tích cực lãnh
đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp và chế độ phong kiến, ngày 2/6/1931,
Đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Mỹ Tho. Kẻ thù đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc,
mọi cực hình để tra tấn nhưng không khuất phục được ý chí cách mạng của Đồng
chí, sau hơn 7 tháng giam cầm, đầu năm 1932, chúng đưa Đồng chí ra tòa Đề hình
ở Sài Gòn xét xử. Mặc dù không có chứng cớ gì, nhưng toà án thực dân vẫn khép
Đồng chí 3 năm tù, 3 năm quản thúc và đưa về Mỹ Tho giam giữ.
Trong lao tù, Đồng chí tiếp tục lãnh đạo anh em
tù nhân đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, xây dựng đường dây liên lạc với
bên ngoài để tiếp tục chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng chống chế độ
thực dân và bọn phong kiến tay sai. Thực dân Pháp đã đàn áp dã man cuộc đấu
tranh của tù nhân, đồng chí Phạm Hùng bị địch tống biệt giam vào xà lim. Ngày
20/9/1932, tại Mỹ Tho, thực dân Pháp đã mở phiên toà Đại hình xét xử những
người chống lại “an ninh công cộng”, Đồng chí bị kết án tử hình và đưa về giam
ở xà lim án chém Khám Lớn Sài Gòn.
Trong xà lim án chém, Đồng chí đã cảm hoá một số
tù thường phạm bị thực dân Pháp kết án xử tử, thức tỉnh lương tâm và truyền
niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng cho các bạn tử tù. Sau đó, phong
trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước và tiến bộ ở trong nước cũng như trên
thế giới buộc chính quyền thực dân Pháp phải giảm án tử hình đối với đồng chí
Phạm Hùng và một số chiến sĩ cách mạng xuống chung thân khổ sai, đày ra Côn Đảo
tháng 1/1934.
Gần 15 năm trong tù đày, trong đó 12 năm bị thực
dân Pháp giam giữ ở nhà tù Côn Đảo - địa ngục trần gian tàn bạo của chế độ thực
dân, Đồng chí đã thể hiện khí phách cách mạng cao đẹp, kiên cường, dũng cảm,
sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng cách mạng, là biểu tượng của “tinh thần
thép”. Đồng chí đã cùng chi ủy, chi bộ lãnh đạo tù nhân đấu tranh quyết liệt
đòi giảm nhẹ chế độ tù khổ sai, cải thiện chế độ sinh hoạt nhà tù; trực tiếp
tham gia tổ chức nhiều lớp học tập văn hóa, học tập lý luận nâng cao trình độ
chính trị, củng cố lập trường tư tưởng, giữ vững lý tưởng và niềm tin vào tương
lai của cách mạng cho các chiến sĩ cộng sản, các bạn tù thường phạm, các bạn tù
thuộc các đảng phái khác, góp phần quan trọng vào việc biến nhà tù đế quốc
thành trường học cộng sản, đào tạo lớp cán bộ cách mạng trưởng thành ngay trong
nhà tù đế quốc. Trong khí thế Cách mạng tháng Tám năm 1945, với tư cách là Bí
thư Đảo ủy, Đồng chí đã lãnh đạo tù nhân đứng lên giải phóng nhà tù Côn Đảo lần
thứ nhất (1945) và trở về đất liền tiếp tục tham gia lãnh đạo kháng chiến ở
miền Nam.
2.
Đồng chí Phạm Hùng - Nhà lãnh đạo tài năng và có uy tín lớn của Đảng và Nhà
nước ta
Đồng chí Phạm Hùng là một trong những nhà lãnh
đạo có những cống hiến quan trọng, góp phần làm nên các chiến thắng vĩ đại của
dân tộc ta trong thế kỷ XX. Với ý chí kiên cường, tư duy sáng tạo và nhiệt tình
cách mạng, Đồng chí được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao phó nhiều trọng trách
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như trong thời
kỳ tái thiết, xây dựng đất nước trong hòa bình. Trong công tác, thời chiến cũng
như trong thời bình, Đồng chí luôn thể hiện phong cách làm việc có chương
trình, kế hoạch, có nguyên tắc nhưng không máy móc, thể hiện rõ tư duy độc lập,
tự chủ của một nhà lãnh đạo tài năng.
Sau gần 15 năm bị giam cầm trong lao tù đế quốc
(từ năm 1931 đến năm 1945), sau khi được Đảng đón từ nhà tù Côn Đảo về đất
liền, đồng chí Phạm Hùng tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
ở Nam bộ. Đồng chí được bầu vào Xứ uỷ lâm thời Nam bộ, đến đầu năm 1946, khi
đồng chí Lê Duẩn được điều ra Hà Nội, Đồng chí được bầu làm Bí thư Xứ ủy Nam Bộ
kiêm Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc (Giám đốc Nha Công an Nam bộ). Trên cương vị
Bí thư Xứ ủy, Đồng chí luôn năng nổ, nhiệt huyết, làm việc có kế hoạch, có
nguyên tắc và dân chủ, bám sát các nghị quyết của Đảng và những chỉ đạo của Bác
Hồ, cùng tập thể Xứ ủy góp phần quan trọng vào việc chỉ đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của quân và dân Nam Bộ, lập được nhiều chiến thắng vẻ vang,
được Bác Hồ tặng danh hiệu Nam Bộ Thành Đồng.
Với tài năng và uy tín của mình, Đồng chí đã xây
dựng, củng cố khối đoàn kết thống nhất các lực lượng kháng chiến và kiện toàn
bộ máy lãnh đạo của Xứ ủy trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam
Bộ. Với tư cách là Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc, Đồng chí trực tiếp chỉ đạo xây
dựng lực lượng công an cách mạng ở Nam Bộ. Đây là một nhiệm vụ rất khẩn trương
và quan trọng. Tính chất phức tạp trong nội bộ các lực lượng kháng chiến ở Nam
Bộ xuất hiện từ sau Cách mạng tháng Tám đòi hỏi cần phải xây dựng một lực lượng
công an trung thành với Đảng, đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ cơ sở cách mạng,
bảo vệ Nhân dân, đồng thời loại trừ các phần tử cả mật thám lẫn tình báo của
địch; tổ chức tiêu diệt những phần tử ác ôn gây tổn thất cho Đảng và có nhiều
nợ máu với Nhân dân. Những chiến công của lực lượng công an Nam Bộ làm cho kẻ
thù khiếp sợ, Nhân dân yêu mến và tuyệt đối tin tưởng, che giấu, giúp đỡ, được
Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ V (l/1950), dự
thảo Đề án Công an nhân dân Việt Nam do đồng chí Phạm Hùng trình bày đã được
Hội nghị nhất trí thông qua; những nội dung được đề cập trong Đề án đã trở
thành cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng lực lượng Công an
nhân dân Việt Nam sau này.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng
(2/1951), Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được chỉ định tham
gia Trung ương Cục miền Nam; là Phó Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư Phân Liên
khu ủy miền Đông (3/1952). Đồng chí đã lãnh đạo, chỉ đạo quân dân miền Đông
kháng chiến chống thực dân Pháp, củng cố và phát triển cơ sở kháng chiến, từng
bước tạo ra thế và lực đưa cuộc kháng chiến của quân dân miền Đông phát triển
lên đỉnh cao, góp phần phối hợp với chiến trường chính buộc địch phải ký Hiệp
định Giơ-ne-vơ (21/7/1954) chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và
Đông Dương. Tháng 9/1954, Trung ương Đảng họp và khẳng định nhiệm vụ cách mạng
giải phóng dân tộc chưa hoàn thành cuộc đấu tranh cứu quốc và điều chỉnh phương
châm đấu tranh, bảo đảm việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ…; đồng chí Phạm Hùng
được phân công làm Trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban Liên hiệp
đình chiến ở Nam Bộ, Trưởng phái đoàn liên lạc Quân đội nhân dân Việt Nam bên
cạnh Ủy ban quốc tế ở Sài Gòn có nhiệm vụ giám sát và đấu tranh buộc đối phương
thi hành Hiệp định ở vùng Nam Bộ.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, Đồng chí đã cùng với Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam vận dụng
sáng tạo đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể Nam Bộ, đề ra nhiều chủ trương
quan trọng: Tổ chức tiến hành chiến tranh Nhân dân; thực hiện dân chủ ở nông
thôn (tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ Việt gian phản động, tạm
cấp cho dân cày nghèo); chỉ đạo phong trào đấu tranh ở đô thị; giải quyết thành
công vấn đề tôn giáo, làm tốt công tác vận động nhân sỹ, trí thức, tăng cường
và mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất; đặc biệt là tăng cường công tác xây
dựng Đảng. Nhờ giải quyết tốt vấn đề nông dân và liên minh công - nông - trí,
nên cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ không ngừng được đẩy mạnh, vùng giải
phóng ngày càng được mở rộng, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân
và dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, trên cương vị
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Thống nhất Trung ương,
Phó Thủ tướng Chính phủ, Đồng chí đã tham gia tổ chức biên soạn và hoàn thiện
dự thảo Đề án về hòa bình thống nhất nước nhà và cách mạng miền Nam, làm cơ sở
cho Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II
xây dựng Nghị quyết 15 về cách mạng miền Nam; góp phần to lớn tạo ra bước ngoặt
cho cách mạng miền Nam từ thế cầm cự giữ gìn lực lượng, chuyển sang thế tấn
công và giành thắng lợi.
Ngày 29/4/1958, tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội
khóa I đã bầu đồng chí Phạm Hùng làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Đồng chí đã dành
hết tâm trí, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo lĩnh vực phát triển kinh tế,
trực tiếp đi cơ sở động viên các phong trào sản xuất nông nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh tế; kiểm tra, chỉ đạo thực tiễn ở địa phương; chỉ đạo xây dựng và ban
hành các văn bản điều hành kinh tế vĩ mô và tổ chức các nhiệm vụ phát triển
trên các mặt trận kinh tế - xã hội đạt những thành tựu quan trọng, thúc đẩy
phát triển toàn diện, làm cơ sở hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam.
Năm 1967, Đồng chí được Đảng giao nhiệm vụ Bí
thư Trung ương Cục miền Nam và Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền
Nam Việt Nam. Đây là thời điểm quân và dân miền Nam đang bí mật gấp rút chuẩn
bị và tiến hành đòn tiến công chiến lược Tết Mậu Thân (1968). Cuộc tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân ta nổ ra đồng loạt trên khắp miền
Nam, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc
chúng phải thay đổi chiến lược chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với Chính
phủ ta tại Hội nghị Pa-ri.
Từ cuối năm 1968 đến tháng 4/1975, dưới sự chỉ
đạo của đồng chí Phạm Hùng, Trung ương Cục đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết, chỉ đạo phong trào đấu tranh của quân và dân miền Nam trên cả ba vùng
chiến lược. Tháng 4/1975, sau thắng lợi của các chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà
Nẵng, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn, mang tên Chiến
dịch Hồ Chí Minh, chỉ định đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm
Hùng làm Chính ủy Bộ Chỉ huy Chiến dịch. Với tư cách là Bí thư Trung ương Cục,
Bí thư Quân ủy Miền, Chính ủy Chiến dịch, đồng chí Phạm Hùng đã góp phần quan
trọng trong việc tổ chức và lãnh đạo quân và dân ta, nhất là cổ vũ, động viên
lực lượng vũ trang chớp thời cơ để hoàn thành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử. Sáng 30/4/1975, khi nghe tin Tổng thống Sài Gòn đề nghị với phía cách
mạng ngừng bắn để thương lượng, Chính ủy Phạm Hùng đã ký và cho phát ngay bức
điện hỏa tốc gửi các đơn vị trên chiến trường: “Địch đang dao động tan rã. Các
cánh quân hãy đánh mạnh, tiến nhanh chiếm các mục tiêu đúng quy định. Hội quân
tại Dinh Độc lập ngụy. Địch không còn có gì để thương lượng bàn giao. Chúng
phải đầu hàng vô điều kiện. Tiến lên! Toàn thắng!” - 11 giờ 30 phút ngày 30
tháng 4 năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Là một trong những người
lãnh đạo cao nhất của cách mạng miền Nam, đồng chí Phạm Hùng đã tỏ rõ tinh thần
kiên cường, dũng cảm, mưu trí, vượt qua gian khổ và ác liệt của đạn bom, góp
phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện thành
công tâm nguyện của Bác Hồ, thu non sông Việt Nam về một mối.
Sau khi đất nước thống nhất, đồng chí Phạm Hùng
được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trong những điều kiện khó
khăn phức tạp của đất nước sau giải phóng, Đồng chí đã thể hiện bản lĩnh của
một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, quyết đoán và sáng suốt. Trên mọi cương vị
công tác, đặc biệt trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Đồng chí chú trọng xây
dựng đạo đức người công an cách mạng, phát động trong toàn lực lượng công an
phong trào học tập, thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm túc 6 điều Bác Hồ
dạy; góp phần xây dựng lực lượng công an nhân dân trưởng thành lớn mạnh, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, làm thất bại hoàn toàn các
âm mưu bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch và phản cách mạng thời hậu
chiến, giữ gìn sự bình yên cho đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (12/1986), đồng chí Phạm Hùng tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương và Uỷ viên Bộ Chính trị; tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII
(17/6/1987), được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - Thủ tướng đầu tiên của nước ta thời kỳ đổi mới.
Tình hình đất nước ta trong những năm đầu đổi
mới gặp vô vàn khó khăn, khủng hoảng, lạm phát nghiêm trọng, các thế lực thù
địch thực hiện cấm vận bao vây, phá hoại nhiều mặt, hòng làm đất nước ta kiệt
quệ về kinh tế. Trên cương vị đứng đầu Chính phủ, Đồng chí khẳng định trước
Quốc hội: “Tập thể Hội đồng Bộ trưởng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình bằng ý
chí tiến công cách mạng, bằng hành động thiết thực, bằng hiệu quả cụ thể để làm
tròn trách nhiệm đối với Đảng, Quốc hội và nhân dân”.
Những cống hiến và hoạt động không mệt mỏi của
đồng chí Phạm Hùng trong những năm tháng chèo chống con thuyền cách mạng vượt
qua khó khăn thời kỳ đầu đổi mới đã để lại dấu ấn sâu đậm, khẳng định tài năng
và tinh thần trách nhiệm của một nhà lãnh đạo chủ chốt với những quyết sách của
Đảng và Nhà nước, đưa đất nước ta thoát khỏi đói nghèo, từng bước phát triển.
3.
Đồng chí Phạm Hùng - Tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng
Đồng chí Phạm Hùng được nuôi dưỡng và lớn lên ở
vùng châu thổ hạ lưu sông Cửu Long, mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cách
mạng, trung tâm của đồng bằng Nam Bộ. Trải qua hàng trăm năm khai hoang, mở
đất, lao động chinh chục thiên nhiên đã hình thành ở con người nơi đây những
phẩm chất tốt đẹp: Cần cù, chịu thương, chịu khó, tương thân tương ái, trượng
nghĩa, hào hiệp, ý chí vượt lên số phận, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, không
chịu lùi bước trước khó khăn, thách thức; vừa chống lại sự bất công của xã hội để
giành lẽ sống, vừa sẵn sàng xả thân chống ngoại xâm giữ gìn nền độc lập của Tổ
quốc. Truyền thống yêu nước, cách mạng, những phẩm chất quý báu của con người
và quê hương Vĩnh Long và cái nôi giáo dưỡng nền nếp, chu đáo, toàn diện của
gia đình, đã góp phần hình thành, hun đúc nên một nhân cách lớn, người cộng sản
mẫu mực Phạm Hùng, người con kiên trung của Nam Bộ Thành Đồng - danh hiệu do
Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng. Đồng thời, chính tấm gương đạo đức sáng ngời,
sự nghiệp cách mạng cao cả của đồng chí Phạm Hùng đã góp phần bồi đắp, tô đẹp
thêm truyền thống tốt đẹp của quê hương Vĩnh Long.
Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Phạm Hùng là
một tấm gương cao đẹp của một người cộng sản chân chính, người học trò xuất sắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân. Trong
suốt quá trình sáu mươi năm hoạt động cách mạng liên tục, Đồng chí đã tỏ rõ
tinh thần kiên trung cách mạng, ý chí suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự
do của dân tộc, vì sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Không quản gian nan, nguy
hiểm, dù ở cương vị nào, dù ở thời kỳ cách mạng nào, Đồng chí cũng luôn sẵn
sàng xông pha nơi đầu sóng ngọn gió, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Với tinh thần nhiệt huyết cách mạng, kiên định, sáng tạo, nghị
lực phi thường, Đồng chí đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng vì hạnh phúc, ấm no
của Nhân dân, vì hòa bình và phát triển đất nước.
Trong sinh hoạt, Anh Hai - Phạm Hùng luôn thể
hiện phong cách bình dị, gần gũi, ân cần, cởi mở, hết lòng yêu thương đồng chí,
dân chủ và rộng lượng với mọi người nhưng lại rất nghiêm khắc với chính mình.
Trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Chính phủ, người ta thấy ở Đồng
chí sự thanh tao, tiết kiệm, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, quý trọng thời
gian, không ham muốn quyền lợi cho riêng mình, ghét thói bợ đỡ, công khai tự
phê bình và sẵn sàng tiếp thu ý kiến người khác góp ý cho mình. Không chỉ tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức bản thân, mà trên cương vị của mình, Đồng chí luôn
quan tâm, giành nhiều tâm lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng các thế
hệ cán bộ có năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng. Đồng chí luôn tin tưởng
vào sức mạnh của Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân, phấn đấu không mệt mỏi
cho khối đại đoàn kết dân tộc; không chỉ quan tâm, giáo dục, giác ngộ mà còn gần
gũi học hỏi Nhân dân, lo từ cái ăn, ở, học hành của dân, bảo vệ lợi ích và tài
sản của dân. Đồng chí thường nhắc nhở cán bộ: Đồng bào đã ủng hộ kháng chiến
nhiều rồi, không nên lợi dụng dân quý mến mà nhận quà cáp của dân. Những năm
tháng gian khổ ở chiến khu miền Đông, thiếu thốn lương thực, thực phẩm, Đồng
chí luôn gương mẫu tham gia tăng gia sản xuất, trồng rau, nuôi gà, không nhận
khẩu phần cơm anh em dành riêng cho mình. Đồng chí nói: Cùng sống chung với
nhau, sống chết bên nhau, thì phải đồng cam cộng khổ; tôi không thể nào nuốt
cơm trôi khi các anh em húp cháo loãng.
Yêu thương con người là phẩm chất bao trùm ở
đồng chí Phạm Hùng. Tình yêu thương con người ở Đồng chí được gắn quyện với
tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước đã tạo nên tinh thần lạc quan của
người chiến sĩ cộng sản. Đối với đồng chí, đồng đội, dù ở cương vị nào, Đồng
chí luôn chân thành, thẳng thắn, trọng lẽ phải, quý trọng và hòa hợp với mọi
người. Đồng chí là một nhà lãnh đạo có tài có đức, có lối sống tình nghĩa, cởi
mở, rộng lượng bao dung, khoáng đạt, vị tha và tác phong hòa đồng dễ mến.
Đồng chí trở thành tấm gương sáng về nghị lực và
tình yêu thương của người cộng sản. Đồng chí lo, buồn, vui cho đất nước, nhưng
vẫn không quên trách nhiệm với gia đình riêng của mình. Đồng chí là người con
hiếu nghĩa với cha mẹ, quê hương và đất nước, người chồng thủy chung, người cha
mẫu mực, hết lòng thương yêu con cháu. Trong thời gian công tác tại chiến
trường miền Nam, mặc dù rất bận nhưng khi có cơ hội, Đồng chí vẫn giành cho gia
đình, bạn bè ở miền Bắc những tình cảm nồng ấm, yêu thương, gần gũi.
Đồng chí là một cán bộ cao cấp chủ chốt của Đảng
và Nhà nước ta, tài đức vẹn toàn, có phong cách sống và làm việc thể hiện rõ
phong cách của một người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời Đồng
chí là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng của người cộng sản trung kiên, bất
khuất suốt đời phấn đấu hy sinh phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân và xây dựng
tình đoàn kết hữu nghị giữa Nhân dân ta với các dân tộc và bạn bè trên thế giới.
III.
Học tập tấm gương suốt đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, vì hạnh
phúc của Nhân dân của đồng chí Phạm Hùng, cán bộ, đảng viên và toàn thể Nhân
dân quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của
Đảng
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang
tích cực đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống; triển khai thực
hiện các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; Kết luận số 01-KL/TW
ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, triển khai chuyên đề “Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”... Tuyên truyền, kỷ niệm
110 năm Ngày sinh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng là những hoạt động
thiết thực để tôn vinh những cống hiến lớn lao của Đồng chí đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc ta, đồng thời bồi dưỡng truyền thống cách mạng,
giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ Việt Nam.
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Phạm Hùng,
chúng ta học tập tấm gương của Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, Người học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người con ưu tú của dân tộc và quê hương
Vĩnh Long với những phẩm chất cao quý: Đó là, ý chí kiên cường, dũng
cảm, lạc quan, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, vững tin vào thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Đó
là, phong cách làm việc khoa học, sâu sát cơ sở, thực tiễn, gắn bó máu
thịt với Nhân dân; có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; làm việc có kế hoạch,
có kỷ luật, tâm huyết, trách nhiệm cao với tinh thần “Chúng ta còn sống thì còn
lao động và chiến đấu”. Đó là, tình yêu thương con người, đối với
đồng chí sống có tình nghĩa, bao dung, vị tha; đối với bản thân thì nghiêm khắc
tự phê bình, sẵn sàng tiếp thu ý kiến người khác góp ý; sống giản dị, chân
tình; hiếu nghĩa với cha mẹ, quê hương, đất nước; thuỷ chung, mẫu mực, hết lòng
chăm lo, thương yêu gia đình.
Phát huy truyền thống cách mạng quý báu do các thế
hệ tiền bối để lại, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức đẩy mạnh thực hiện
các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết đồng tâm hiệp lực, vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đẩy lùi dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, sớm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.