Tài liệu phục vụ các buổi sinh hoạt chính trị dưới nghi thức chào cờ đầu tuần (09/2022).
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945
Mồng 2 tháng Chín năm 1945.
Hà Nội tưng bừng
màu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ
những rặng cây, đỏ những mặt hồ.
Biểu ngữ bằng
các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa, Nga chăng khắp các đường phố: “Nước Việt
Nam của người Việt Nam “, “Đả đảo chủ nghĩa thực dân Pháp”, “Độc lập hay là
chết”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Hoan nghênh
phái bộ Đồng minh”…
Các nhà máy, các
cửa hiệu buôn to, nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp. Mọi hoạt động buôn bán,
sản xuất của thành phố tạm ngừng. Đồng bào thủ đô già, trẻ, gái, trai đều xuống
đường. Mọi người đều thấy mình phải có mặt trong ngày hội lớn đầu tiên của đất
nước.
Những dòng người
đủ mọi màu sắc, từ khắp các ngả tuôn về vườn hoa Ba Đình.
Đội ngũ của
những người thợ quần xanh, áo trắng tràn đầy sức mạnh và niềm tin. Người lao
động bình thường hôm nay đến ngày hội với tư thế đường hoàng của những người
làm chủ đất nước, làm chủ tương lai.
Hàng chục vạn
nông dân từ ngoại thành kéo vào. Những chiến sĩ dân quân mang theo côn, kiếm,
mã tấu. Có những người vác theo cả những quả chùy đồng, những thanh long đao
rút ra từ những giá vũ khí bày để trang trí các điện thờ. Trong hàng ngũ của
các chị em phụ nữ nông thôn với những bộ quần áo ngày hội, có những người vấn
khăn vàng, mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý. Cũng chưa bao giờ người nông dân ở
những làng xóm nghèo quanh Hà Nội đi vào thành phố với một niềm tự hào như ngày
hôm ấy.
Những cụ già vẻ
mặt nghiêm trang. Những cô gái thủ đô hớn hở, áo màu rực rỡ.
Rộn ràng là các
em thiếu nhi. Dù sự giàu nghèo của mỗi gia đình chưa đổi khác, nhưng từ ngày
hôm nay, tất cả các em đều trở thành những người chủ nhỏ của đất nước độc lập.
Theo nhịp còi của các anh, các chị phụ trách, các em khua rền trống ếch, giậm
chân bước đều, hát vang những bài ca cách mạng.
Những nhà sư,
những ông cố đạo cũng rời nơi tu hành, xuống đường, xếp thành đội ngũ đến dự
ngày hội lớn của dân tộc.
Nắng mùa thu rất
đẹp trên Quảng trường Ba Đình, từ giờ phút này đã đi vào lịch sử. Đội danh dự
đứng nghiêm trang chung quanh lễ đài mới dựng. Các chiến sĩ Quân giải phóng bữa
trước theo Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa, từ Tân Trào tiến về phía Nam
“đánh vào các đô thị và trọng trấn của quân địch”. Hôm nay, họ đã đứng sát cánh
cùng các đội tự vệ của công nhân, thanh niên và lao động thủ đô bảo vệ Chính
phủ lâm thời.
Sau bao năm bôn
ba khắp thế giới, mang án tử hình của đế quốc Pháp, qua mấy chục nhà tù và
những ngày dài gối đất nằm sương, Bác đã trở về ra mắt trước một triệu đồng
bào. Sự kiện lịch sử này mới hôm nào còn ở trong ước mơ.
Ba tiếng Hồ Chí
Minh không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta
thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn
còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái
Quốc khi đó không nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị Chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã ra
mắt đồng bào như một lãnh tụ lần đầu xuất hiện trước đông đảo quần chúng.
Đó là một cụ già
gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áo ka ki cao
cổ, đi dép cao su trắng.
Mấy ngày hôm
trước, một vấn đề được đặt ra là phải có một bộ quần áo để Bác mặc khi Chính
phủ ra mắt đồng bào. Cuối cùng, Bác đã chọn bộ quần áo này. Hai mươi bốn năm
làm Chủ tịch nước, trong những ngày lễ lớn của dân tộc, trong những cuộc đi
thăm nước ngoài, Hồ Chủ tịch bao giờ cũng xuất hiện với một hình ảnh giản dị,
không thay đổi. Vẫn bộ quần áo vải, trên ngực không một tấm huân chương, y như
lần đầu Bác đã ra mắt đồng bào.
Ông cụ có dáng
đi nhanh nhẹn. Dáng đi này cũng làm cho đôi người lúc đó hơi ngạc nhiên. Họ đã
không nhìn thấy ở vị Chủ tịch dáng đi trang trọng của những người “sang”. Giọng
nói của ông cụ phảng phất giọng nói của một miền quê đất Nghệ An.
Bác đã xuất hiện
trước một triệu đồng bào ngày hôm đó như vậy.
Lời nói của Bác
điềm đạm, đầm ấm, khúc chiết, rõ ràng. Không phải là cái giọng hùng hồn người
ta thường được nghe trong những ngày lễ long trọng. Nhưng người ta tìm thấy
ngay ở đó những tình cảm sâu sắc, ý chí kiên quyết; tất cả đều tràn đầy sức
sống; từng câu, từng tiếng đi vào lòng người.
Đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:
- Tôi nói, đồng
bào nghe rõ không?
Một triệu con
người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:
- Co.o.ó!
Từ giây phút đó,
Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một.
Đây là bản Tuyên
ngôn của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa giành được độc lập bằng cuộc chiến
đấu suốt tám mươi năm của dân tộc. Đây còn là những lời lẽ tâm huyết, đầy cảm
kích của đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp cách mạng nhất, có những
người con tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân tộc, trước
máy chém, trước miệng súng của quân thù, đã từng giật tấm băng đen bịt mắt, hô
lớn: “Việt Nam độc lập muôn năm!”.
Buổi lễ kết thúc
bằng những lời thề Độc lập:
- Chúng tôi,
toàn thể dân Việt Nam xin thề: “Kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ lâm thời
Việt Nam dân chủ cộng hòa, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
- Chúng tôi xin
thề: “Cùng Chính phủ giữ nền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô
xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng”.
- Nếu Pháp đến
xâm lược lần nữa thì chúng tôi xin thề:
“Không đi lính
cho Pháp,
Không làm việc
cho Pháp,
Không bán lương
thực cho Pháp,
Không đưa đường
cho Pháp!”.
Một triệu con
người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một. Đó là lời thề của toàn dân kiên
quyết thực hiện lời Hồ Chủ tịch vừa đọc để kết thúc bản Tuyên ngôn:
“Nước Việt Nam
có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
“Bản án chế độ
thực dân Pháp” đã có từ ba mươi năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính là ngày
chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử.
Lịch sử đã sang
trang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu: Kỷ nguyên của Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Bản đồ thế giới
phải sửa đổi lại vì sự ra đời của một Nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Cùng với cuộc Tổng
khởi nghĩa nổ ra trong suốt hạ tuần tháng 8, ngày Độc lập mồng 2 tháng Chín đã
có một ý nghĩa cực kỳ trọng đại trong đời sống chính trị, tinh thần của dân
tộc.
Điều lo lắng của
Bác trước đây ba mươi năm: “Đông Dương đáng thương hại! Ngươi sẽ nguy mất nếu
đám thanh niên già cỗi của ngươi không sớm hồi sinh”, hôm nay, không còn là
điều khiến cho Người phải băn khoăn. Cả dân tộc đã hồi sinh.
Độc lập, tự do
đã đến với mỗi người dân. Mỗi người đã thấy được giá trị thiêng liêng của nó,
thấy trách nhiệm phải bảo vệ. Vô vàn khó khăn còn ở trước mắt. Nhưng đối với
bọn đế quốc, muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ
dàng như xưa.
(Trích nguồn: cuốn
Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2007)