3. Tài liệu phục vụ các buổi sinh hoạt chính trị dưới nghi thức chào cờ đầu tuần (03/2018).
Bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên được ra đời
như thế nào?
Đội Thanh
niên xung phong công tác Trung ương đầu tiên thành lập ngày 15/7/1950 theo chỉ
thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Sau khi phục vụ chiến dịch Biên giới, Đội
được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường quan trọng: Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái
Nguyên.
Đội đã tổ chức
thành nhiều Liên phân đội rải quân dọc tuyến đường và nhận nhiệm vụ bám trụ những
nơi hiểm yếu. Liên phân đội thanh niên xung phong 321 của chúng tôi được nhận
trọng trách bảo vệ cầu Nà Cù (thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn), nằm trên
tuyến đường từ thị xã Bắc Kạn đi Cao Bằng. Cầu Nà Cù lúc này không những đã trở
thành mục tiêu ném bom bắn phá của máy bay địch, mà còn có nguy cơ bị nước lũ
cuốn trôi.
Trung tuần
tháng 9 năm 1950, chúng tôi được tin báo có đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm
Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần) sẽ đến thăm đơn vị. Đêm hôm đó,
chúng tôi tổ chức lửa trại trong rừng Nà Tu để đón khách. Vừa trông thấy ánh
đèn pin thấp thoáng từ ngoài cửa rừng đi vào, đoán là khách đã đến, tôi cho anh
chị em vỗ tay hoan hô: “Hoan hô đồng chí Trần Đăng Ninh”. Khách vào tới nơi, định
thần nhìn lại, tất cả chúng tôi đều sững sờtrước niềm vinh hạnh phúc thật bất
ngờ: Bác Hồ đến thăm. Hàng ngũ của chúng tôi trở nên xáo động…, nhưng do việc
giữ bí mật đã ăn sâu vào ý thức từng người nên trong hàng ngũ cũng chỉ truyền
đi những tiếng reo khe khẽ: “Bác Hồ! Bác Hồ!”. Rõ ràng Bác đang ở trước mắt mà
chúng tôi cứ ngỡ như một giấc chiêm bao! Bác vẫn giản dị với bộ quần áo bà ba
màu nâu, chiếc khăn quàng cổ che kín cả chòm râu. Đi bên cạnh Bác là đồng chí
Trần Đăng Ninh.
Bác tươi cười
nhìn chúng tôi và giơ tay ra hiệu:
- Các cháu ngồi
cả xuống.
Chúng tôi đều
răm rắp nghe theo lời Bác, im lặng ngồi xuống.
Những câu đầu
tiên Bác hỏi chúng tôi là những lời hỏi thăm ân cần về tình hình đời sống của
đơn vị.
Bác hỏi:
- Các cháu ăn
uống có đủ no không?
- Thưa Bác có
ạ!
- Các cháu có
đủ muối ăn không?
- Thưa Bác đủ
ạ!
- Quần áo,
chăn màn, thuốc phòng bệnh chữa bệnh có đủ không?
- Thưa Bác đủ
ạ!
Qua nụ cười
hiền hậu trên nét mặt của Bác, chúng tôi thấy Bác biết thừa là chúng tôi nói dối
để Bác vui lòng. Bác đã được đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp báo cáo đầy đủ
về chế độ cấp phát lương thực, thuốc men, quân trang cho thanh niên xung phong
còn thiếu thốn. Bác lại hỏi:
- Các cháu có
biết Đảng Lao động Việt Nam không?
- Thưa Bác có
ạ!
- Sau đó Bác
lại hỏi tiếp:
- Đảng Lao động
Việt Nam với Đảng Cộng sản Đông Dương khác nhau ở điểm nào?
Một số người
trong chúng tôi được Bác kiểm tra trực tiếp toát mồ hôi, nên trả lời rất lúng
túng.
Sau đó bằng
những câu ngắn gọn, Bác đã truyền đạt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
II vừa mới họp về việc đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt
Nam. Tiếp đó Bác nhắc nhở:
- Lần sau cái
gì không biết các cháu phải nói không biết, không biết mà nói biết là giấu dốt.
Rồi Bác đột
ngột hỏi tiếp:
- Đào núi có
khó không?
Chúng tôi ai
cũng dè dặt không dám trả lời ào ào như trước nữa. Thế là người trả lời: khó,
người sợ nói khó bị cho là tư tưởng ngại khó nên trả lời không khó.
Trả lời xong
mà cứ nơm nớp sợ Bác hỏi thêm. Bác chưa kết luận mà hỏi thêm chúng tôi:
- Có ai dám
đào núi không?
Và chỉ định một
đội viên gái ngồi ngay trước mặt Bác, đồng chí này mạnh dạn đứng lên thưa:
- Thưa Bác có
ạ! Thanh niên xung phong chúng cháu ngày ngày vẫn đang đào núi để đảm bảo giao
thông đấy ạ! (Hồi bấy giờ chúng tôi đào núi bằng cuốc, xẻng, không được cơ giới
hoá như bây giờ). Nghe xong, Bác cười:
- Đào núi
không khó là không đúng, nhưng khó mà con người vẫn dám làm và làm được. Chỉ cần
cái gì?
Chúng tôi đã
bình tĩnh, lấy lại được tinh thần và mạnh dạn hẳn lên, thi nhau giơ tay lên
phát biểu, có người trả lời “cần quyết tâm cao” có người “cần kiên gan bền
chí”, “cần vượt khó vượt khổ”, có người “cần xung phong dũng cảm”, toàn là những
khẩu hiệu hành động của thanh niên xung phong chúng tôi hồi đó.
Bác động viên
chúng tôi:
- Các cháu trả
lời đều đúng cả: Tóm lại việc gì khó mấy cũng làm được, chỉ cần quyết chí. Tục
ngữ ta có câu: “Có công mài sắt, có ngày lên kim”. Để ghi nhớ buổi nói chuyện của
Bác cháu ta hôm nay, Bác tặng các cháu mấy câu thơ:
Không
có việc gì khó
Chỉ
sợ lòng không bền
Đào
núi và lấp biển
Quyết
chí ắt làm lên.
Đọc xong mỗi
câu thơ, Bác lại bảo chúng tôi đồng thanh nhắc lại. Cuối cùng Bác chỉ định nhắc
lại cả bài thơ cho tất cả đơn vị nghe. Thật may mắn, tôi đã nhắc trôi chảy
không sai chữ nào.
Giữa rừng đêm
khuya, dưới ánh lửa bập bùng, Bác cùng chúng tôi hoà nhịp theo bài ca “Nhạc tuổi
xanh”. Chúng tôi hát hào hứng, say mê. Đến khi bài hát được hát lại lần thứ
hai, nhìn lại thì không thấy Bác đâu nữa! Bác xuất hiện và ra đi như một ông
tiên trong chuyện cổ tích huyền thoại. Đám thanh niên chúng tôi ngẩn ngơ nuối
tiếc hồi lâu.
Bài thơ nổi
tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên được ra đời như thế đó. Rất mộc mạc, giản dị
nhưng lại vô cùng sâu sắc. Bài thơ là nguồn cổ vũ, động viên lớp lớp thanh niên
xung phong chúng tôi lao vào cuộc kháng chiến và kiến quốc. Sau này mỗi
khi gặp khó khăn, hình ảnh của Bác Hồ và bốn câu thơ của Bác lại được tái hiện
trong lòng chúng tôi, tiếp cho chúng tôi thêm sức mạnh để vượt qua.
(Trích trong “Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
Theo www.baclieu.gov.vn
Tâm Trang (st)